Cuộc Đời và Số Mệnh Nguyễn Phúc Vĩnh
TungBÀI 1: ĐỜI NGƯỜI MƯỜI HAI BẾN NƯỚC THÂN
CƯ BẾN NÀO?Khi nói đến Dịch Lý, Tử Vi, Phong Thủy và Tướng
Mệnh thì hầu hết người Á Đông chúng ta ai cũng công nhận đó là
những khoa học huyền bí rất có giá trị của người Trung Hoa từ hơn
bốn ngàn năm về trước. Nói là cógiá trị vì những khoa học này tuy
gọi là huyền bí nhưng lại rất sát thực với cuộc sống hiện tại và
giúp ích cho chúng ta rất nhiều trong những sinh hoạt hằng ngày.
Chẳng hạn, khoa Phong Thủy giúp cho chúng ta khi đang sống trên đời
biết chọn lựa, điều chỉnh, sửa đổi cho tốt đẹp hơn căn nhà chúng ta
đang ở, cơ sở thương mãi chúng ta đang điều hành, và khi chúng ta
buông tay từ giã cõi đời thì cũng biết chọn lựa một nơi đểyên giấc
ngàn thu. Quan niệm này rất quan trọng đối với người xưa, vì đây
không phải cho chính bản thân chúng ta nữa mà cho con cháu chúng ta
sau này. Chẳng hạn, vua Gia Long khi còn tại vị, ngài đã đíùch thân
chọn địa điểm để xây lăng cho mình, bởi vậy, những triều vua về
sau, tuy không có mấy ai tài giỏi như vua Gia Long, lại thêm lịch
sử đã có nhiều biến chuyển,nhưng nhà Nguyễn vẫn kéo dài được hơn
150 năm. Khoa Tướng Mệnh giúpchúng ta biết người, biết ta trong vấn
đề dùng người, kết bạn hoặc trong những việc giao dịch hằng ngày
rất dễ dàng, chỉ qua một cái bắt tay nhau, đối diện nhau trong vài
giây phút hoặc trao đổi với nhau vài câu chuyệnmà có thể tránh được
cái ân hận “lầm người” như chúng ta thường thấy. Còn thâm sâu hơn,
như khoa Tử Vi Đẩu Số cũng giúp cho chúng ta biếtmình, biết người
một cách tường tận từ những chi tiết nhỏ nhặt cho đến tổng quát cả
một đời người... Những khoa học huyền bí nêu trên tuycó đối tượng
khác nhau, nhưng mục đích giống nhau, ví dụ, đối tượng của khoa
Phong Thủy là nơi chúng ta ở, lúc sống là nhà, là cơ sở làm ăn, lúc
chết là mộ phần, còn đối tượng củakhoa Tử Vi Đẩu Số là con người,
và cuộc đời của chúng ta, từ lúc sinh ra cho đến lúc chết. Còn điểm
tương đồng là những lãnh vực mà các khoa này diễn đạt và chi phối
trong cuộc sống hằng ngày của một đời người. Chẳng hạn, khoa Phong
Thủy chia căn nhà của chúng ta ra làm 8 cung, mỗi cung là biểu
tượng một lãnh vực trong đời sống hằng ngày của chúng ta, đó là các
cung Quan Lộc, cung Học Vấn, cung Gia Đạo, cung Tài Lộc, cung Địa
Vị, cung Tình Duyên, cung Tử Tức và cung Quý Nhân, mỗi cung là mỗi
hướng của căn nhà. Khoa Tử Vi cũng diễn đạt đời người qua 12cung,
cung Mệnh, cung Phụ Mẫu, cung Phúc Đức, cung Điền Trạch, cung Quan
Lộc, cung Nô Bộc, cung Thiên Di, cung Tật Ách, cung Tài Lộc, cung
Tử Tức, Cung Phu Thê, và cung HuynhĐệ. Trong ba bộ môn, Tử Vi,
Phong Thủy và Tướng Mệnh, thì Tử Vi là khoa nặng về thiên mệnh hơn
cả. Khi nghiên cứu về khoa Tử Vi Đẩu Số, chúng ta sẽ thấy rằng, một
người sinhra đời vào giờ nào, tháng nào và nămnào thì cuộc đời của
người này đã được an bài từ giây phút đó. Bởi vậy, chúng ta có thể
nói, đời người mười hai bến nước, Thân cư bến nào thì cuộc đời của
mình sẽ có sắc thái của bến mà thuyền đời mình đã buông neo. Khi
nói khoa Tử Vi chia cuộc sống của một người thành 12 lãnh vực là
chúng ta chưa diễn đạt rõ trong 12 lãnh vực này thì lãnh vực nào sẽ
nỗi bật nhất trong cuộc đời của người ấy? Khoa Tử Vi diễn đạt điều
này bằng cung thứ mười ba, đó là cung Thân. Cung Thân không có một
vị trí nhất định trong Thiên Bàn của lá số như 12 cung đã nêu trên,
mà vị trí của cung Thân tùy thuộc vào giờ sinh của mỗi người và
cung Thân chỉ đóng vào 1 trong 6 cung chính yếu là cung Mệnh, cung
Phúc Đức, cung Quan Lộc,cung Tài Lộc, cung Thiên Di và cung Phu Thê
mà thôi. Điều này phản ảnh một nhân sinh quan hợp lý của xã hội
phong kiến: cuộc đời một người lúc sinh ra đã bị chi phối bởi số
mệnh củamình (Thân cư Mệnh hay còn gọi là Thân Mệnh đồng cung), khi
ra đời thì bị chi phối bởi xã hội (Thân cư Thiên Di), bởi công danh
sự nghiệp (Thân cưQuan Lộc hay Thân cư Tài Lộc), bởi vợ chồng (Thân
cư Phu Thê) và bởi phúc đức của chính mình tạo ra hoặc thừa hưởng
của ông bà cha mẹ (Thân cư Phúc Đức), chứ không bị chi phối bởi con
cái (Tử Tức), anh chị em (Huynh Đệ) hoặc bạn bè hay người ăn người
làm của mình (Nô Bộc)... Khoa Tử Vi Đẩu Số cũng cho rằng, trong 13
cung của một lá số thì cung Mệnh và cung Thân là hai cung quan
trọng nhất. Cung Mệnh nói lên nét tổng quát cả cuộc đời của người
đó và nhấn mạnh giai đoạn khởi đầu của cuộc đời gọi là tiền vận,
tức là từ lúcsinh ra cho đến đoạn đời trong khoảng 30 đến 36 tuổi
và cung Thân là bức tranh của đoạn đời còn lại hay còn gọi là hậu
vận. Bởi sự quan trọng của cung Thân như vậy, cho nên một nguyên
tắc căn bản của khoa Tử Vi là: “Thân cư cung nàothì cung đó sẽ là
lãnh vực sinh hoạt chính yếu trong cuộc đời của người đó”. Như
chúng ta đã nói ở trên, Thân chỉ ở vào 1 trong 6 cung chính và Thân
an theo giờ sinh, cho nên những người sinh vào giờ Tý hay giờ Ngọ
thì Thân đóng ở cung Mệnh, gọi là Thân cư Mệnh, hay Thân Mệnh
đồngcung, những người sinh vào giờ Sửu hay giờ Mùi thì Thân cư Phúc
Đức, những người sinh vào giờ Dần hay giờ Thân thì Thân cư Quan
Lộc, những người sinh vào giờ Mão hay giờ Dậu thì Thân cư Thiên Di,
những người sinh vào giờ Thìn hay giờ Tuất thì Thân cư Tài Lộc và
những người sinh vào giờ Tỵ hay giờ Hợi thì Thân cư Phu Thê. Từ ý
nghĩa căn bản đó của khoa Tử Vi, khi biết một người sinh vào giờ
nào, chúng ta có thể phác họa được một nét tổng quát về cuộc đời
của người này sẽ như thế nào, và đó chínhlà một trong những sự kỳ
diệu của khoa Tử Vi Đẩu Số, một trong những khoa học huyền bí của
người Trung Hoa đã có từ hơn bốn ngàn năm trước. Và kỳ sau, chúng
ta sẽ nói về những nét đặc điểm và ý nghĩa về cuộc đời của những
người có số Thân cư Mệnh, hay còn gọi là mẫu người Thân Mệnh Đồng
Cung, tức là những người sinh vào giờ Tí, giờ theo đồng hồ là từ 11
giờ đêm đến 1 giờ sáng, hay những người sinh vào giờ Ngọ, từ 11 giờ
sáng đến 1 giờ chiều.MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ THIÊN DI” Nằm ở vị trí đối
diện với cung Mệnh trên lá số, cho nên cung Thiên Di có một tầm
quan trọng không kém gì cung Mệnh. Có thể nói cung Thiên Di là cái
bóng của cung Mệnh trong nhiềuý nghĩa. Cung Thiên Di xung chiếu
vớicung Mệnh, cho nên những gì xấu tốt của cung này sẽ ảnh hưởng
mạnh mẽ vào cung Mệnh hơn là hai cung Quan Lộc và Tài Lộc, tức hai
cung có vị tríhợp chiếu với cung Mệnh. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn điều
này đối với những người Mệnh Vô Chính Diệu, tức là cung Mệnh không
có chính tinh tọa thủ, cho nên phải mượn chính tinh củacung Thiên
Di mà nói lên ý nghĩa của cung Mệnh. Đầu tiên, hai chữ Thiên Di
không phải chỉ nói lên ý nghĩa của sự dời đổi haydi chuyển, mà cung
Thiên Di còn nói lên cái lãnh vực hay địa bàn sinh hoạt của mỗi
người ngoài đời, ngoài xã hội. Nói một cách khác, nếu cung Mệnh
biểu hiệu con người của mình khi sinh ra đời, thì cung Thiên Di
biểu hiệu con người của mình, vị trí của mình ngoài xã hội nói
chung, và trongmôi trường sinh hoạt hằng ngày của mình nói riêng.
Cung Thiên Di còn nói lên nhiều nét đặc biệt khác như nghề nghiệp,
sự giao thiệp, khuynh hướng tôn giáo, sống hay làm ăn xa ở nơi quê
người, chết tha phương hay chết trên quê hương của mình, ra đời
được người thương mến hay không, chẳng hạn những người có số Hoa
Cái cư Thiên Di là những người ra ngoài thường được nhiều người
thương mến, hay ngoài đời thường có được người giúp đỡ hay không,
như những người số có cung Thiên Di giáp Tả Hữu, giáp Nhật Nguyệt
hay giáp Quang Quý là số mà người ta thường nói là được quý nhânphò
trợ, hay những người thân phải tựlập thân, suốt đời chỉ là kẻ độc
hành, cũng vì hai sao Cô Quả đóng ở Thiên Di, hoặc số ra đời là
được tiền hô hậu ủng, cũng là vì cung Thiên Di được cách tiền Cái,
hậu Mã vậy. Và một lần nữa, chúng ta thấy sự sắp xếp các cung trên
một lá số của khoaTử Vi rất có ý nghĩa: cung Thiên Di tam hợp với
hai cung Phúc Đức và Phu Thê, cho nên, sự may mắn hay bất hạnh, sự
thành công hay thất bại của mỗi người ở ngoài đời đều một phần nào
do phước đức của dòng họ cũng như của chính mình tạo nên, và sự hỗ
trợ của người bạn đời, là người chồng hay người vợ,ï từ đằng sau
hay bên cạnh mình là những yếu tố không thể chối bỏ. Những đặc tính
căn bản của cung Thiên Di vừa nói trên sẽ giúp chúng tadễ dàng nhìn
thấy nét đặc biệt của mẫu người Thân Cư Thiên Di. Thân cưtại Thiên
Di nên cá tính đầu tiên mà chúng ta nhìn thấy ở mẫu người này
làtính thích hoạt động, thích cuộc sống phải có sự thay đổi cũng
như thích di chuyển. Bởi vậy, người Thân Cư ThiênDi không phải là
mẫu người trong gia đình, họ là mẫu người ngoài xã hội, là mẫu
người như ông bà chúng ta thường ví là ăn cơm nhà vác ngà voi hay
việc nhà thì nhác, việc chú bác thìsiêng. Từ đó, nếu quý bà mà đức
lang quân có số Thân Cư Thiên Di thì đừng mong cuối tuần các ông sẽ
ở nhà dọn dẹp nhà cửa hay cắt cỏ, làm vườn, và cũng đừng có buồn
với những bữa ăn cơm lạnh, canh nguội bởi các ông về trễ vì phải
họp hội đoàn, thăm bạn bệnh, đến chùa hay nhà thờ giúp thầy, giúp
cha v.v... Và ngược lại, nếu phu nhân của quý ông mà có số Thân Cư
Thiên Di, thì trước khi cưới hỏi, quý ông cũng nên lo học trước
cách luộc trứng, nấu cơm sao cho chín, cũng như học cáchpha sữa,
thay tả, ru con sao cho con ngủ v.v..., bởi vì người đàn bà có số
Thân Cư Thiên Di cũng là mẫu người ngoài xã hội, họ thích cuộc sống
bên ngoài hơn là cuộc sống trong gia đình, những sinh hoạt bên
ngoài mangđến cho họ nhiều niềm vui và sự thíchthú hơn là những
việc của một người đàn bà phải làm cho chính bản thân họ, hoặc cho
chồng con bên trong giađình. Bởi vậy, người Thân Cư Thiên Di không
chịu được cảnh sống lẻ loi đơn chiếc vì họ là con người của đám
đông, của bạn bè, của hội hè đình đám... Người Thân Cư Thiên Di
thích giao thiệp rộng nên thường là những người có năng khiếu trong
lãnh vực ngoại giao và tổ chức.Trong lãnh vực nghề nghiệp, người
Thân Cư Thiên Di thích làm những nghề có tính cách di động, thường
được đi đây, đi đó, tiếp xúc với nhiều người... Chẳng hạn như hoa
tiêu hàng không hay hàng hải, tiếp viên hàng không, chuyển vận
đường bộ, hướng dẫn viên du lịch, phóng viên báo chí hay truyền
thanh, truyền hình,đại diện thương mãi, ngoại giao v.v...đều là
những ngành nghề thích hợp vớicá tính của mẫu người Thân Cư Thiên
Di. Hầu hết những người có số Thân Cư Thiên Di thường ra đời sớm,
vào nghềvà tự lập sớm hơn những người cùng lứa tuổi, điều này có
thể vì hoàn cảnhvà cũng có thể vì cá tính như vậy. Người Thân Cư
Thiên Di có nhiều cơ hội để đi đây, đi đó, sống xa nhà, xa quê
hương, nhất là trường hợp cung Thiên Di đóng tại Dần, Thân, Tị, Hợi
là những vị trí của Thiên Mã, một saochỉ về sự di chuyển và thay
đổi, như vậy chắc chắn họ là những người thường có cuộc sống nơi
đất khách quê người, làm ăn, sinh sống và chết cũng tại quê người.
Và một nét đặc biệt nữa của mẫu người Thân Cư Thiên Di là cung
Thiên Di lúc nào cũng đối diện với cung Mệnh, cho nên khi Thân cư
vào cung Thiên Di thì Thân và Mệnh đối diện nhau, do đó, người Thân
Cư Thiên Di như có “hai con người” trong họ, một con người với
những bản chất đãcó từ lúc sinh ra, và một con người khác là con
người ngoài xã hội, đậm nét nhất là trong môi trường mà họ sinh
hoạt hằng ngày. Tóm lại, mẫu người Thân Cư Thiên Dilà mẫu người có
một cuộc sống sôi động và thích hợp với ngoài xã hội hơn là trong
gia đình. Họ sinh ra để làm việc, để hoạt động và có máu giang hồ,
cho nên thường thích ra đờisớm, thích sống xa nhà, xa quê hươngcho
thỏa chí tang bồng. Kỳ sau, chúng ta sẽ nói đến mẫu người Thân Cư
Tài Lộc, là những người sinh vào giờ Thìn, tức là từ 7 giờ sáng đến
9 giờ sáng, hoặc những người sinh vào giờ Tuất, tức là từ 7 giờ tối
đến 9 giờ tối.MẪU NGƯỜI “THAM VŨ ĐỒNG HÀNH” Mẫu người “Tham Vũ Đồng
Hành” là những người có cung Mệnh an tại tứ mộ, tức là bốn cung
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi và có hai sao Tham Lang và Vũ Khúc tọa thủ
đồng cung hoặc xung chiếu với nhau. Nếu cung Mệnh an tại Thìn và
Tuất, thì Tham Lang và Vũ Khúc sẽ xung chiếu với nhau. Nếu cung
Mệnh an tại Sửu và Mùi thì ThamLang và Vũ Khúc sẽ tọa thủ đồng
cung. Sau phần trình bày khái quát về cuộc đời của mẫu người Tham
Vũ Đồng Hành nói chung, chúng ta sẽ đi vào chi tiết để xem sự khác
biệt của mẫu người tuy là Tham Vũ Đồng Hành, nhưng Tham Vũ đồng
cung tọa thủ tại Mệnh có gì khác biệt với ngườiTham Lang thủ Mệnh
và Vũ Khúc xung chiếu, cũng như Vũ Khúc thủ Mệnh và Tham Lang xung
chiếu? Trước tiên, chúng ta nói qua về đặc tính của hai sao Tham
Lang và Vũ Khúc là hai chính tinh trong cách Tham Vũ Đồng Hành Cư
Tứ Mộ, rồi sau đó mới nói đến hai sao phụ khác nữa là Linh Tinh và
Hỏa Tinh thì mới đủ bộ và đúng cách. Tham Lang là Bắc Đẩu tinh,
hành của Tham Lang cóngười cho là hành Thủy, có người cholà hành
Hỏa và cũng có người cho là hành Mộc. Theo thiển ý của người viết
thì Tham Lang thuộc hành Mộc, bởi vậy, khi Tham Lang (đào hoa)
tọathủ tại cung Tí (cung Thủy), khoa Tử Vi gọi đây là cách Phiếm
Thủy Đào Hoa, nghĩa là hoa đào trôi dạt trên dòng nước. Bản tính
của Tham Lang là đặt nặng vấn đề vật chất trong cuộc sống. Thích
hội hè đình đám, những chỗ đông người với những cuộcvui. Tính rất
năng động, háo danh, háo thắng và thích làm những chuyện lớn cho
nên có nhiều tham vọng. Ưu điểm của Tham Lang là có năng khiếuvề
kinh doanh, có khả năng tổ chức, nhưng khuyết điểm là mau chán nản
và dễ bỏ cuộc nửa chừng. Nếu Tham Lang ở các vị trí miếu hay vượng
địa thì chủ về uy quyền, giàu sang và sốnglâu.Vũ Khúc cũng là Bắc
Đẩu tinh và thuộc hành Kim. Bản chất của Vũ Khúc rất nghịch với
Tham Lang ở điểm Tham Lang thích vui chơi ở chỗđông người thì Vũ
Khúc lại thích cô đơn, làm việc gì cũng muốn độc hành. Người có Vũ
Khúc thủ Mệnh tính gan dạ, táo bạo, có khả năng tổ chức, có đầu óc
kinh doanh, chủ quyền uy, danh vọng và giàu sang. Chính những điểm
tương đồng này giữa Vũ Khúc với Tham Lang mà bộ Tham Vũ là một bộ
sao của những tay kinh doanh có hạng trên thương trường. Có người
cho rằng Tham Vũ là hai sao thuộc về võ cách, tượng trưng cho võ
nghiệp thì tại sao lại hợp với lãnh vực kinh doanh? Để trả lời cho
điều này, chúng ta hãy nhìn vào cuộc sống của người Hoa Kỳ cũng như
cộng đồng người Việt tị nạn, một số những cựu quân nhân, saukhi giã
từ vũ khí, họ đã thành công một cách dễ dàng trên thương trường.
Vậy phải chăng, những đức tính và khả năng cần có của một người
điều binh trên chiến trường cũng cần thiết cho một người lăn lộn
trên thương trường, đúng với câu mà người Trung Hoa vẫn nói: thương
trường như chiến trường. Được xem là đắc cách Tham Vũ Đồng Hành thì
hai sao Tham Lang và Vũ Khúc phải đóng tại bốn cung Thìn,Tuất, Sửu,
Mùi gọi là tứ mộ, bốn cungnày thuộc hành Thổ cho nên đó là bốnvị
trí miếu địa, vượng địa của hai saoTham Vũ. Một điều kiện quan
trọng khác là tại bốn vị trí này, bộ Tham Vũ phải gặp một hoặc cả
hai sao LinhTinh, Hỏa Tinh. Hai sao Linh Hỏa có thể đồng cung, xung
chiếu hay tam hợp chiếu với hai sao Tham Vũ thì mới đầy đủ uy lực
mà khoa Tử Vi thường gọi là cách Tham Vũ đồng hành cư tứ mộ, ngộ
Linh, Hỏa hào phú gia tư, hầu bá chi quý. Có nghĩa là người Mệnh an
tại bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, có Tham Lang và Vũ Khúc đồng
cung hay xung chiếu, lại thêm có một hoặc hai sao Hỏa Tinh, Linh
Tinh chiếu vào là số giàu sang, phú quý như bậc hầu bá dưới thời
phong kiến ngày xưa.Điều mà chúng ta lưu ý ở đây là sự thành công,
phú quý của mẫu người Tham Vũ Đồng Hành không phải từ quan trường,
mà chính là từ thương trường. Như trên chúng ta đã nói, mẫu người
Tham Vũ Đồng Hành rất gan dạ, tự tin, nhiều tham vọng, có óc tổ
chức và có năng khiếu về thương mãi, cho nên họ là những tay kinh
doanh có tầm vóc chứ không phải chỉ làm ăn buôn bán lẻ tẻ. Đó phải
chăng là do sự ảnh hưởng kỳ diệucủa vòng Ngũ Hành tương sinh trong
cách này: hành Hỏa của Linh Tinh, Hỏa Tinh một mặt phù trợ cho hành
Thổ của bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi để tương sinh cho hành Kim
của Vũ Khúc, đồng thời cũng đốt cho Kim này thành Thủy để dưỡng Mộc
của Tham Lang, rồi Mộc của Tham Lang lại là củi cho ngọn lửa Linh,
Hỏacháy bùng lên... Một đặc điểm khác đáng lưu ý của mẫu người Tham
Vũ Đồng Hành là vì ảnh hưởng của Vũ Khúc, cho nên mẫungười này
thường lao đao, lận đận trong tiền vận, và sớm lắm thì cũng phải
qua trung vận, đa số phải đến hậuvận mới có thể gọi là thành công
như ý muốn và lúc đó cơ nghiệp mới có thể bền vững được. Hỏa Tinh
và Linh Tinh là hai sao Hỏa,cho nên lúc phát thì sẽ giúp cho bộ
Tham Vũ phát rất nhanh, nhưng nếu phát không đúng vào thời vận thì
cũng chỉ như ngọn lửa rơm, bùng lên rồi cũng tắt đi một cách nhanh
chóng. Nếu biết được lý lẽ này, mẫu người Tham Vũ Đồng Hành chẳng
nênbôn ba sớm trong cuộc đời mà chuốcnhiều phiền não, đắng cay.
Điều này rất nhiều người đã biết, nhưng họ không cam lòng, để cuối
cùng cũng nói được một câu an ủi với chính mình như Nguyễn Du đã
nói: càng phong trần danh ấy càng cao! Đặc điểm này thấy rõ nhất ở
những người Tham Vũ Đồng Hành mà Mệnh an tại hai cung Sửu và Mùi,
hai sao Tham Vũsẽ đồng cung, khắc chế nhau mạnh mẽtrong tiền vận
(khoảng 33 hoặc 36 tuổi) khiến cho đương số bao lần thấm mệt và sớm
ngộ được cái ý nghĩa của câu: có tài mà cậy chi tài...Phải qua
trung vận và bắt đầu vào hậuvận thì sự nghiệp của người Tham Vũ
Đồng Hành có Mệnh an tại Sửu hay Mùi mới được ổn định và bền vững
cho đến cuối cuộc đời.Nói đến sự thành công của mẫu ngườiTham Vũ
Đồng Hành nhanh hay chậm,bền vững hay ngắn ngủi thì chúng ta cũng
nên lưu ý trường hợp nếu Mệnh an ở tứ mộ, có Tham Lang tọa thủ đồng
cung với Hỏa Tinh, thì đây còn gọi là cách Tham Hỏa Tương Phùng,
nếu gặp Linh Tinh thì gọi là cách Tham Linh Tịnh Thủ, cũng là những
dạng của Tham Vũ Đồng Hành, nhưng với cách này, khi đến thời, đương
số sẽ phát rất nhanh vì ảnh hưởng mạnh mẽ của Ngũ Hành tương sinh
giữa Tham Lang thuộc Mộc và Hỏa Tinh thuộc Hỏa đồng cung với nhau.
Tuy nhiên, công danh sự nghiêp dù có phátrất nhanh chóng, nhưng
cũng chẳng giữ được lâu bền, vì đây cũng chỉ là cách bạo phát, bạo
tàn mà thôi. Tương tự như vậy, chúng ta xét đến vị trí của hai
chính tinh Tham Vũ tại tứ mộ. Đối với những người Tham VũĐồng Hành
mà Mệnh an tại hai cung Thìn và Tuất thì sự khắc chế của hai sao
Tham Vũ tương đối nhẹ hơn vì nằm trong vị trí xung chiếu nhau, vì
vậy, sự nghiệp của mẫu người này sẽ thành đạt sớm hơn, nhưng mức độ
của sự thành đạt lại không có kích thước bằng những người Mệnh an
tại Sửu Mùi. Và một điểm khác biệt nữa là cá tínhcủa mỗi mẫu người
Tham Vũ Đồng Hành sẽ có sự khác biệt tùy theo cungan Mệnh. Khi Mệnh
an ở Thìn Tuất thì nếu chúng ta giao tiếp với những người này,
chúng ta sẽ nhận ra họ nhưcó hai con người khác nhau: một con người
vì ảnh hưởng của Vũ Khúc nên thường sống cô độc, suy nghĩ và quyết
định một mình, nhưng khi ra ngoài, sao Tham Lang lại làm cho họ
thành một con người khác, họ biết nói, biết làm cho vui lòng người
khác,mặc dù trong thâm tâm họ không thích như vậy, và phải chăng
đây cũnglà một đăÏc tính giúp họ thành công trong lãnh vực kinh
doanh? Tóm lại, mẫu người Tham Vũ Đồng Hành là một mẫu người lý thú
khi chúng ta quen biết hoặc hợp tác trongvấn đề làm ăn mua bán với
nhau. Họ là những người có cá tính rất mạnh, gan lì, táo bạo và
nhiều tham vọng. Địa bàn giúp họ thành công là thương trường. Và
thời điểm mà họ xây dựng được sự nghiệp như ý là hậu vận của cuộc
đời.MẪU NGƯỜI “CỰ KỴ” Tâm lý chung của nhiều người khi nghiên cứu
về khoa Tử Vi là thường chỉ chú tâm đến những bộ sao chính như Tử
Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Liêm Tham hoặc Cơ Nguyệt Đồng Lương v.v...
Thật ra những cách đơn giản như Cự Kỵ, hoặc các bộ sao nhỏ như Thai
Phục Vượng Tướng mà chúng ta sẽ bàn đến cũng cho chúng ta thấy một
số mẫu người có những nét rất đặc biệt trong cuộc đời, nếu không
muốn nói là những cách, những bộ sao nhỏ này đôi khi còn ảnh hưởng
sâu đậm hơn và chi phối mạnh mẽ hơn trên cuộc đời của đương số. Và
trước khi phác họa những nét đặc biệtcũng như những điểm giống nhau
và khác nhau của hai mẫu người Cự Kỵ và mẫu người Thai Phục Vượng
Tướng, chúng ta hãy bàn qua bản chất của mỗi sao trong hai cách
này. Trước tiên, Cự Môn thuộc nhóm Bắc Đẩu tinh, hành Thủy, miếu
địa ở Mão,Dậu, vượng địa ở Tí, Ngọ và Dần. Về ý nghĩa thì Cự Môn là
cái miệng, và chúng ta đã biết, con người sống cũngnhờ cái miệng,
chết cũng vì cái miệng, được người thương cũng do cái miệng, bị
người ghét cũng bởi cái miệng của mình mà thôi... Ngoài ý nghĩa
trên, nếu Cự Môn tọa thủ tại những vị trí miếu, vượng thì Cự Môn
còn là biểu tượng của sự giàu sang, thông minh, cơ trí, có khiếu ăn
nói, có tài hùng biện, thích hợp với các ngành ngoại giao, giao
thiệp, dạy học,luật sư...luật sư... Chẳng hạn nếu thấy lá số củacon
cái mình có cách Cự Hổ Tuế Phù,là gồm các sao Cự Môn, Bạch Hổ, Tuế
Phá và Thiên Phù hội họp với nhau thì nên khuyến khích cho con
cáiđi vào ngành luật, vì tương lai chắc chắn sẽ trở thành những
luật sư tài giỏi. Nhưng ngược lại, nếu Cự Môn rơi vào những nơi hãm
địa thì đã không tài giỏi lại thiếu suy nghĩ, cứ mở miệng ra là bị
người ta ghét và suốt đời chỉ gặp toàn là những chuyệnthị phi khẩu
thiệt mà thôi. Ý nghĩa thứ hai, Cự Môn là viên ngọc.Chẳng hạn, Cự
Môn ở Tí Ngọ là cách Thạch Trung Ẩn Ngọc, có nghĩa là ngọc còn ẩn
trong đá, Cự Môn gặp Thái Dương là cách Cự Nhật, là ngọc lấp lánh
dưới ánh mặt trời, và Cự Môn gặp Hóa Kỵ là cách Cự Kỵ mà chúng ta
đang bàn đến, còn gọi là Tì Hà Ngọc, có nghĩa là ngọc bị tì vết.
Sao thứ hai của cách này là Hóa Kỵ, một ám tinh với nhiều tính xấu
như độc hiểm, ích kỷ, ghen tương, tai tiếng, thị phi, kiện cáo, tai
họa, bệnh tật, nông nổi và hay lầm lẫn... Với bản chất như vậy, cho
nên Hóa Kỵ đã làm cho viên ngọc Cự Môn thành tì vết, nhưng Hóa Kỵ
cũng có một điểmtốt là giữ được của. Cách Cự Kỵ không có gì đáng
nói đối với nam mệnh, ngoài những nét tổng quát là cuộc đời nhiều
thất bại, lại thường hay bị nhiều điều thị phi khẩu thiệt, tai nạn
về xe cộ hay sông biển, mà cách này chỉ đáng lưu ý hơn đối với nữ
mệnh. Khi gọi cách Tì Hà Ngọc thì chữ ngọc hàm ý chỉ vào pháinữ,
hay nói rõ hơn là vấn đề trinh tiết, phẩm hạnh của một người đàn
bà, cho nên mẫu người Cự Kỵ mà chúng ta nói đến là bàn nhiều đến lá
số của những người đàn bà có cách Cự Kỵ. Khi lá số của một nữ mệnh
có Cự Môn tọa thủ và có Hóa Kỵ đồng cung,xung chiếu hay hợp chiếu
thì ít nhiều cũng có điểm bất lợi. Ở đây chúng ta phải lưu ý một
điều là khi luận đoán một lá số của nữ mệnh mà có những cách như Cự
Kỵ, Tham Kỵ, Đào Kỵ hay Thai Phục Vượng Tướng mà chúng ta sẽ đề cập
tiếp theo, thì sự cân nhắc nặng nhẹ phải hết sức thận trọng, vì vấn
đề sẽ liên quan đến danhtiết và phẩm hạnh của một người đànbà.Do
đó, chúng ta nên phân biệt rõ ràng mỗi trường hợp sau đây. Trường
hợp lá số của một người đàn bà mà cung Mệnh có Cự Môn miếu vượng
tọa thủ và gặp Hóa Kỵ, chúng ta phải quan sát thêm ở cung Mệnh
vàcác cung chính khác như cung Thân, cung Phúc, cung Phu, cung
Quan, cungNô... để xem nếu có những sao xác định nết đoan chính như
Thái Dương, Tứ Đức... hoặc những sao khắc chế tính lẳng lơ như Hóa
Khoa, Thiên Hình... thì Cự Kỵ ở đây nhẹ là những người thường hay
gặp các hoàn cảnh khiến cho mình bị những tai tiếng thị phi hoặc dễ
bị người khác hiểu lầm, đánh giá sai lầm phẩm hạnh của mình mà có
những lời nói, cử chỉ xúc phạm, sách nhiễu tình dục (sexual
harassement). Mức độ nặng hơn, nếu gặp những sao như Thiên Hình,
Kiếp Sát... thì có thể vì bệnh tật mà phải mổ xẻ, như cắt bỏ buồng
trứng, tử cung v.v... Hoặc có thể là những tai nạn về xe cộ và đáng
kể nhất là nhữngtai họa về sông biển như một số người đã gặp trên
đường vượt biển trong những năm về trước. Như vậy, trong trường hợp
này, viên ngọc của cách Tì Hà Ngọc vốn là một viên ngọc sáng, nhưng
vì hoàn cảnh mà rơixuống bùn nên vấy bùn, hoặc bị lăn xuống đường
nên có tì vết, đó là ngoài ý muốn, là tai nạn của đương số mà thôi.
Trường hợp nếu Cự Môn tuy là miếu, vượng mà gặp Hóa Kỵ, lại còn
được sự hỗ trợ của các sao có tính lãng mạn, như Văn Xương, Văn
Khúc, Hồng Loan hoặc lẳng lơ, ham chuộng vật chất, nặng phần tình
dục như Tham Lang, Đào Hoa, Thiên Riêu v.v... thì những gì không
tốt xảy ra cho đương số là do bản tính chứ không phải là những rủi
ro, tai nạn, vàhoàn cảnh chỉ là những trợ lực thúc đẩy thêm mà
thôi. Chẳng hạn, nữ mệnh có cách Cự Kỵ lại gặp thêm Đào Hồng thì
làm sao mà giữ được trinh tiết cho đến ngày lên xe hoa, vàkhi đã có
gia đình thì một đời cũng đau khổ vì tình hoặc phải lo buồn vì
chồng con, dù cho họ có một cuộc sống vật chất đầy đủ, dù cho họ
cũng có địa vị trong xã hội, là những mệnhphụ phu nhân... Trường
hợp này có thểví như mẫu người của Vương Thúy Kiều, ở cái thời xa
xưa đó, với xã hội phong kiến đó, mà nửa đêm thân gái một mình vào
nhà Kim Trọng đánh đàn, thì làm sao trách được sự đánh giá nghiêm
khắc của người sau: Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm. Và như vậy,
viên ngọc của cách Tì Hà Ngọc trong trường hợp này là một viên ngọc
vốn đã có vết, có bọt ngay từ trong lòng đất, chứ không phải do tay
người dũa ngọc hay người chủ củaviên ngọc. Trường hợp nữ mệnh có Cự
Môn hãm địa tọa thủ mà không được Tuần, Triệt án ngữ hay được các
sao “đoan chính” hóa giải phần nào thì đây là một mẫu người đặc
biệt. Là mẫu người có một bề ngoài mà ai mới gặpcũng thấy yêu
thích, nhưng khi tiếp cận lâu dài thì mới thấy rõ con người thật
được che đậy vốn là một người đàn bà chua ngoa, ghen tương, đố kỵ
đủ điều... Và nếu đi kèm với một ám tinh Hóa Kỵ nữa thì ba chữ Tì
Hà Ngọc thật là đúng nghĩa! Khoa Tử Vi cũng cho rằng, cách Cự Kỵ dù
tọa thủ tại cung Mệnh hay các cung chính yếu khác như cung Phúc
Đức, cung Quan Lộc, cung Tài Lộc hay cung Phu Thê cũng còn nói lên
sự bất ổn trong cuộc sống tình cảm của đương số. Lá số có cách Cự
Kỵ một đời khó lòng chỉ có một mối tình haychỉ một cuộc hôn nhân,
chuyện gãy đổ, chắp nối hay sống với nhau theo kiểu già nhân ngãi,
non vợ chồng là chuyện bình thường của mẫu người này, nếu không
được những sao hóa giải. Các trở ngại hay đổ vỡ trong tình cảm
thường là do sự khắc khẩu, ảnh hưởng của Cự Môn, và tính ghen tương
cũng như lòng ích kỷ quá nặng, ảnh hưởng của Hóa Kỵ. Tóm lại, cách
Cự Kỵ không tốt cho cả nam mệnh và nữ mệnh, nhưng đối với nữ mệnh
thì sự ảnh hưởng nặng nềvà tai hại hơn trong lãnh vực trinh tiết và
phẩm hạnh của đương số. Nói chung, nữ mệnh mà gặp cách Cự Kỵ thì
cuộc đời chắc chắn là một kiếp phong trần, chỉ khác nhau ở mức độ
nặng nhẹ mà thôi. Nhưng ở đây, chúng ta đừng quên một trường hợp
đặc biệt, cách Cự Kỵ lại rất tốt cho những người tuổi Quý và tuổi
Thân, khoa Tử Vi Đẩu Số gọi là phản vi kỳ cách, có nghĩa là từ xấu
trở thành tốt vì có sự ứng hợp.Những Bí ẩn của khoa Tử vi Trong
suốt hơn một ngàn năm, bộ môn Tử vi được coi như là khoa học huyền
bí bởi tất cả các yếu tố an sao và giải đóan đều dựa theo một vài
công thức định trước, mà không có sự giải thích hay chứng minh lý
do tạisao. Dù tin hay không tin, thực tế chothấy khoa tử vi cũng đã
được lưu truyền trong dân chúng khá lâu, và ít nhất cũng đã có một
số người chấp nhận, nghĩ rằng có thể dùng để đoán được phần nào vận
mệnh tương lai của con người! Ðiều đáng ngạc nhiên là nếu đúng theo
dữ kiện cho thấy, khoa Tử vi hiện tại này chỉ còn có Việtnam là đất
dụng võ, dù có nguồn gốc từ Trung hoa. Ngay cả các sách viết về Tử
vi ở Trung Hoa cũng có nhiều, nhưng họ không thích xài Tử vimà lại
chọn các môn khác thông dụnghơn như Tử Bình (gọi tắt là Báttự có 8
chữ, lấy số theo hàng Can và Chi của Năm, Tháng, Ngày và Giờ). Một
lý do có thể giải thích là vì sau này họđã khám phá và thấy được
rằng, vận hành của các sao không được chính xác như đã tin tưởng
lúc ban đầu! Những gì được người viết phá thiện và trình bày sau
đây cho thấy vài đặc tính khoa học của bộ môn Tử vi. TrầnÐoàn (được
coi như ông Tổ sáng chế ra Tử vi) hay các vị thầy tiền bối của ông
vào khoảng thời nhà Ðường, có thể đã tiến xa hơn và biết khá nhiều
về vận hành của các hành tinh. Nhưng tiếc rằng vì các điều kiện
thực tế chủ quan về văn hóa xã hội thời bấy giờ, nên họ đã dấu kín
và giữ kín bí mật tối đa, nhất là không muốn giải thích hay viết
sách để lại lưu truyền cho hậu thế. Cung An mệnh. Theo quan niệm về
triết lý nhân sinh của Khổng giáo chịuảnh hưởng ít nhiều đạo Lão,
mỗi người sinh ra đều có một số phận được an bài trước gọi là thiên
mệnh. Các nhà lý số hay tử vi gia Trunghoa dựa vào lý thuyết trên
nên tin rằng, khi một đứa bé vừa sinh ra đời là chịu ảnh hưởng định
đoạt cho số phậnbởi các tinh tú hiện diện trên trời ngay thời điểm
đó. Câuvăn nổi tiếng thường nghe là "...sinh ra đời dưới một ngôi
sao..." phản ảnh niềm tin trên. Nói cách khác, khi một đứa trẻ sinh
ra đời tại một địa điểm nào trêntrái đất, sẽ chịu ảnh hưởng của tất
cả các tinh tú chiếu vào ngay tại thời điểm đó, và định đoạt số
mệnh luôn cả đời cho đứa bé vừa sinh! Không phải tự nhiên mà các Tử
vi gia (TVG) bày đặt ra cách an mệnh trongTử vi như sau: Khởi từ
cung Dần (hay tháng Giêng) đếm theo chiều thuận (kim đồng hồ) đến
tháng sinh, rồi từ đó lại đếm ngược cho tới giờ sinh để an cung
mệnh. Dựa vào triết lý số phận cùng cách an cung mệnh cho thấy, các
TVG thời đó đã khám phá ra được hai đặc tính vận hành của tráiđất
và mặt trời, một đúng và một sai! Thứ nhất, đúng là họ đã biết trái
đất tự xoay vòng quanh lấy chính nó theochiều ngược với kim đồng
hồ! Trò chơi lồng đèn xoay (còn gọi là đèn kéo quân hay đèn cù) rất
thịnh hành vào thời nhà Ðường, cho thấy các TVG lúc bấy giờ có thể
đã có khái niệm về trái đất tròn và xoay. Nhưngnhư đã viết ở trên,
họ đã giữ làm bí mật gia truyền, và nhất là sợ nguy hiểm cho chính
bản thân và gia đình do quan niệm "Thiên cơ bất khả lậu" hoặc vì
những người cầm quyền như Vua Chúa không tin (giống như trườnghợp
của Gallileo). Một lýdo khác là ngay chính các TVG cũng không hiểu
và không giải thích được hiện tượng tại sao con người không bịrơi
ra ngoài nếu trái đất xoay tròn! Thêm vào, các hiện tượng thiên
nhiênnhư nhật thực hay nguyệt thực, đã tạo cơ hội để các TVG hiểu
ánh sáng từ mặ ttrăng là do từ ánh sáng mặt trời chiếu vào và thỉnh
thoảng lại bị trái đất che (cho trường hợp nguyệt thực). Có thể với
cách suy luận tầm thường và đơn giản theo lối chứng minh "phản đề"
là: Nếu Trái đất nằm yên không xoay, thì dựa vào quan sát hàng ngày
cho thấy mặt trời, mặt trăng, năm (5) hành tinh và đa số cáctinh tú
thấy được, phải "chạy" xung quanh trái đất mỗi ngày một lần! Ðiều
này cho thấy hoàn tòan vô lý vì nhờ các hiện tượng nhật thực và
nguyệt thực. Cụ thể như nhờ có hiện tượng nhật thực toàn phần giữa
ban ngày,các TVG đã thấy được các ngôisao và các hành tinh hiện ra,
dù trong chốcl át. Nghĩa là không phải vào banngày, các tinh tú
chạy xuống dưới đấtrồi đến tối mới hiệnlên! Thứ hai, các TVG đã
hiểu sai khi khám phá ra và tin rằng mặt trời quaychung quanh trái
đất mỗi năm một lần theo chiều thuận kim đồng hồ! Nhưng thật là may
mắn cho khoa Tử vi, cái sai về lý thuyết lại trở thành đúng trên
thực tế! Lý do là nhờ luật tương đối về chuyển động. Nghĩa là nếu
các TVG đang đứng trên trái đất nhìn mặt trời, trong khi trái đất
di chuyển xung quanh mặt trời theo chiều ngược kim đồng hồ, thì
cũng giốngnhư các TVG đứng trên trái đất nằm yên, và nhìn mặt trời
di chuyển xung quanh trái đất theo chiều thuận kim đồng hồ!. Những
bằng chứng trên cho thấy khi an cung mệnh, các TVG đã theo gần đúng
nguyên tắc vận hành của trái đấtvà mặt trời, xác định vị trí tương
đốilúc đứa bé sinh ra đời trong thái dương hệ. Tuy nhiên, xin được
nhấn mạnh và giải thích rõ ở đây thêm một chút để tránh sự hiểu
lầm. Ðúng ra, phần nào là do ảnh hưởng thể xác của người mẹ, do
tính di truyền hay phù hợp với môi trường vào thời điểm đó, nên
"chuyển bụng" mà sinh ra đứa bé, hơn là do cơ thể đứa bé sinh ra
chịu ảnh hưởng của các hành tinh! Vòng Tử vi và Thiên Phủ: Coi như
quan trọng nhất cho lá số tử vi nên dựa vào tất cả bốn yếu tố là
Năm, Tháng, Ngày và Giờ sinh. Nghĩa là chịu ảnh hưởng của Mặt trời,
Mặt trăng và năm hành tinh. Theo nhận xét của người viết thì có thể
sau khi định vị trí của đứa trẻ khi mới sinh rađời dựa vào tháng và
giờ, các TVG còn dựa vào hai yếu tố sau cùng là vị trí của các hành
tinh hay thiên can, vàvị trí của Mặt trăng hay ngày sinh. Nhưng làm
sao họ biết sao Tử vi phải được an ở đâu dựa vào ngàysinh (?), và
đây vẫn còn là một bí ẩn cần đượcnghiên cứu thêm. Câu trả lời tạm
thờilà có thể các TVG đã dựa vào quan sát thực nghiệm hình dạng và
khuôn mặt của hàng trăm (hay vài ngàn) đứa trẻ trong một thời gian
kéo dài cả mấy trăm năm.Khoa Tướng số cũng có thể nhờ đó mà phát
sinh ra. Nên nhớ là ngày nay các nhà coi Tử vichuyên nghiệp cũng
cần phải dựa vào hình dạng hay tướng mạo để "điều chỉnh" và kiểm
chứng lại trước khi bàn tới lá số của người nào. Vòng Thái tuế:
Trong số những người Việt nổi tiếng một thời nghiên cứu vềkhoaTử
vi, có thể TVG Thiênlương (bút hiệu) là người đã khámphá ra những
yếu tố quantrọng đặc biệt nhất về vòng an sao Thái tuế. Vòng Thái
tuế theo quan niệm của nhóm nghiên cứu TVG ThiênLương, có ảnh hưởng
nhiều đến thái độ sống và cách ứng xử của con người đối với xã hội.
Tại sao vòng Thái tuế lại đóng một vai trò chính trong khoa Tử vi?
Câu trả lời là vì đã dựa vào sao Mộc tinh (Jupiter). Các chiêm tinh
gia từ xưa đã quan sát và biết chu kỳ đặc biệt duy nhất gần 12 năm
của Mộc tinh trong Thái dương hệ. Nhưng yếu tố chính quant rọng ở
đây là họ đã cảm nhận được ảnh hưởng của Mộc tinh đối với các sinh
vật đang sống trên trái đất, nhất là con người theo từng năm (bởi
vậy nên Sao Thái tuế bao giờ cũng an theo năm sinh, nghĩa là sinh
năm nào thì an Thái tuế ở ngay cung đó). Theo dữ kiện khoa học tìm
thấy được, Mộc tinh (Jupiter) hay saoThá ituế có hai đặc tính nổ
ibật nhất trong Thái dương hệ. Thứ nhất là Hành tinh lớn thứ hai
chỉ nhỏ hơn Mặttrời, với đường bán kính trung bình khoảng chừng 70
ngàn cây số (km), gấp 11.2 lần Trái đất. Do đó, lực hấpdẫn
(gravity) của Mộc tinh lên Trái đất rất là đáng kể (chỉ sau Mặt
trăng quá gần với Trái đất). Thứ hai, và đâymới chínhl à điều đáng
nói, ảnh hưởng từ trường của Mộc tinh mạnh nhiều hơn khoảng 10 lần
của Trái đất.Yếu tố sóng từ trường như các phát hiện gần đây cho
thấy, ảnh hưởng rất nhiều trên não bộ của con người nhất là cho các
trẻ em! Thí dụ cụ thể là cách đây mấy năm, đã xảy ra hiện tượng một
số các trẻ em Nhật bị ói mửa và bất tỉnh vì coi một chương trình
truyền hình!Hay giới y học càngngày càng có khuynh hướng tin và
công nhận các loại sóng từ trường, từcác dụng cụ điện tử hay các
đường dây điện cao thế, có thể gây nguy hại cho não bộ con người
nếu hấp thụ quánhiều! Trở lại chuyện tử vi, theo lý giiải của phái
TVG Thiênlương nếu người nào an mệnh tại cung có sao Tuếphá,
xungchiếu với cung thiên di có sao Thái tuế, thì người đó thường
hay bất mãnchống đối, sinh bất phùng thời, v.v. Ðể kiểm chứng hiện
tượng trên, ngườiviết chọn một lá số thí dụ để cho cung mệnh có
được sao tuế phá: Người tuổi Canh-Thìn (1940), sinh tháng 9, giờ
Tý, mệnh an ở cung tuất.Sau đó, dùng cách định vị trí của các hành
tinh vào thời điểm nói trên, thì thấy rằng vị trí trên mặt đất vào
giờ đó đối diện thẳng với sao Mộc tinh, và ở vị trí gầnnhất Dựa vào
TVG Thienluong chothấy người sinh tháng 9 giờ Tý và người sinh
tháng ba giờ Ngọ đều an mệnh tại cung Thìn và có cùng sao Tuế phá
tại mệnh. Khác biệt duy nhất của hai trường hợp trên là chỉ có
người sinh tháng 9 mới chịu ảnh hưởng hoàn toàn của Tuế phá, trong
khi người sinh tháng 3 thì ngược lại không ảnh hưởng tí nào vì nhờ
mặt trời che hoàn tòan! Một yếu tố có thể là do ảnh hưởng của sóng
từ trường quá nhiều từ mộc tinh, nên não bộ của đứa bé lớn lên sẽ
có khuynh hướng phát triển nhiều, thuộc loại thông minh hơn người,
và thường đưa đến trường hợp chống đối những chuyện chướng tai gai
mắt, nên dễ đưa đến bất mãn vì không hùa theo với người được
(trường hợp của CaoBá Quát trong lịch sử). Mặt khác có thể do thiếu
giáo dục và hướng dẫn, dễ kết bè đảng với kẻ xấu (Kiếp,Không, Sát
Phá Tham hãm địa) thành tay đạo tặcgian hùng v.v. Nên nhớ là những
tay đạo tặc gian hùng có tiếng tăm phần đông đều thuộc loại thông
minh hơn người rất nhiều! Hai hànhtinh gần mặt trời nhất cũng có
thể làm cơ sở để an một số sao trong Tử vi. Kim tinh (Venus) có chu
kỳ 0.61 và quay trở lại vị trí cũ (khoảng chừng 5 vòng) cho mỗi 3
năm tròn của trái đất, nên có một sốsao trong Tử vi chỉ an theo ba
(3) nhóm gồm:
Thìn Tuất Sửu Mùi (Tứ mộ), hay Dần Thân Tỵ Hợi và Tý Ngọ Mão Dậu.
Ðặc biệt Thủy tinh (Mercury) quay quanh mặt trời quá mau, cứ mỗi ba
tháng làm 1 vòng, trong khi trái đất cứ ba tháng lại di chuyển một
phần tư (1/4) vòng chungquanh mặt trời, nên theo vị trí tương đối
của người đứng quan sát từ mặt đất sẽ thấy như Thủy tinh chỉ di
chuyển trong 4 vị trí chia đều trên vòng tròn (vì tầm nhìn quan sát
bị gián đoạn không liên tục do vị trí của Thủy tinh quá gần
mặttrời). Phải chăng vì vậy mà sao Thiên Mã và mộtsố sao khác chỉ
an trong 4 cung thuộctrong 3 nhóm trên(?) Những gì vừa được trình
bày cho thấymặc dù khoa Tử vi đẩu số không được hoàn hảo và còn
nhiều nghi vấn theo tiêu chuẩn khoa học hiện đại, nhưng dám chắc
rằng đó chính là biểut ượng cho tinh hoa của nền văn minh Ðông
phương, một thời rạng rỡ đã qua trong thiên niên kỷ đầu tiên của
nhân loại, và hy vọng sẽ có ngày trở lại trong vinh quang của thiên
niênkỷ thứ ba này. Văn và số Phạm Thị Hoài Nghề văn và nghề tử vi
có những tương ứng kỳ lạ. Mới vào thì hăng hái say mê như không thể
dứt. Cái say của kẻ tin rằng số phận là thứ có thể lĩnh hội, văn
nghiệp là thứ có thể thủ đắc. Vậy hãy khao khát băng tới đích,hãy
tràn trề tham vọng, hãy ham muốn đạt được một cái gì. Tất nhiên có
một số đông trong văn giới bẩm sinh là những vị tuẫn nạn, say mê
của họ thuần là khổ hạnh vì chữ nghĩa; một số đông nữa là nhữngbậc
thánh đã rửa hết tục, lòng sạch còn lại chỉ dành cho cái vĩnh cửu
của văn chương mà thôi; và một số đông khủng khiếp nữa là những văn
nhân luôn luôn thuộc về phe bại và đã giải hoà với số phận đen đủi
của mình từ lâu, họ là tổng hoà thành công của những vị tuẫn nạn và
những bậc thánh.Nhưng số đông ấy đáng kính tới mức không có gì để
bàn đến nữa. Ta hãy xem cái say mê tầm thường, hạn hẹp,người ngợm
hơn của thiểu số còn lại, trong đó hình như có mình, biến đổi theo
thâm ni&eci

Chuyển Hướng Đến
GAME NHIỀU NGƯỜI CHƠI